![]() |
Louise Glück |
Dường như cả cuộc đời tôi đã luôn muốn viết. Cường độ mãnh liệt của nỗi trông mong này, dù nghe có phi lí bao nhiêu, tiết lộ tính chính xác về khía cạnh cảm xúc hơn là ý nghĩa thực tế. Tôi nghĩ cuộc đời tôi sẽ không phải là cuộc đời ‘tôi’ nữa, nếu tôi không bắt đầu viết.
Tôi xuất thân từ một gia đình ưa nói, nhưng với nhà tôi thì nói chuyện không có nghĩa là trò chuyện. Họ nói để diễn thuyết. Để chứng tỏ. Để là người chốt hạ từ cuối. Mỗi lúc chỉ được một người nói, nghĩa rằng họ liên tục bị chen ngang và ngắt quãng bởi nỗi nôn nóng của người nghe cứ cào xé và leo thang. Ai cũng muốn được nói. Không ai muốn lắng nghe. Về điểm này tôi y hệt cha mẹ và chị tôi, dẫu mỗi người lại có một kiểu riêng.
Càng ngày, những câu từ khởi phát trong trí óc tôi càng giống trong những cuốn sách tôi yêu thích: chúng bắt đầu từ một nơi và kết thúc ở chỗ không thể ngờ được, dù tại mỗi khúc cua, ý sau vẫn nối tiếp ý trước thật toàn bích và tự nhiên. Sự trầm trồ xuất hiện ở cuối câu, như thể một suy nghĩ đang tự hoàn thiện chính nó với vẻ háo hức hoang dại. Cả câu nói cần phải được cảm nghiệm lại trong ánh sáng này, và thành quả là lớp lớp ngọn sóng chuyên chở bao tiết lộ và minh triết không ngờ. Nghịch lý thay. Khi một thứ nghịch lý bị can thiệp, muốn xoay chuyển ý thì không thể làm hời hợt là xong. Vậy nên người ta xoay chuyển nó luôn tận gốc, đôi khi biến nó thành điều ngược lại - mang vẻ trật tự và hợp lý hơn, như thể đó mới chính là cái được an bài từ trước. Vì tôi không thể đến điểm kết thúc của điều mình định nói, một phản hồi (trong những dịp hiếm hoi được đưa ra) dường như chẳng bao giờ là phản hồi với suy nghĩ của tôi, mà đúng hơn là với thứ ý tưởng đã bị đơn giản hoá mà cuối cùng nó phải trở thành.
Tôi dần dần có cảm giác rằng bản thể mà tôi đặt trong thế giới, giữa những bản thể khác, cứ lúc thì dạt trôi lúc thì vô hình. Tôi không nghĩ rằng lời nói là một phương tiện truyền đạt hiệu quả hay là sự biểu hiện của ‘cái tôi’; trong tuổi thơ là vậy. Trang giấy thì khác. Nơi đây, tiếng nói của tôi có sự ổn định và bất biến – những phẩm chất mà tôi hết lòng khát khao và chẳng khi nào hiếm hoi được trải qua trong các tương tác xã hội. Biết làm sao được? Tính ổn định và bất biến không phải là phẩm chất của câu từ trong lời nói.
Tôi đã học đọc từ tuổi nhỏ. Cùng lúc đó tôi cũng học viết. Cha tôi cũng viết. Ông viết các bài thơ vần dí dỏm kiểu thơ vè; âm điệu của thơ vè nay vẫn còn trong đầu tôi, vẳng đến từ khoảng cách kí ức tôi còn nhớ được. Tôi biết cách gieo vần. Tôi nghe được cách các công thức gieo vần khởi sinh một cảm giác lạ lùng của sự toàn thể và tất yếu. Trong phạm vi vốn từ mình có - một đứa trẻ 5 tuổi, tôi bắt đầu viết những bài thơ của riêng mình theo dạng thơ này: những bài thơ hiện sinh tẻ nhạt.
If kitty cats liked roastbeef bones,
Nếu mèo con thích gặm xương bò nướng,
And doggies sipped up milk;
Còn chó nhỏ thì nhấm nháp sữa tươi,
If elephants walked round the town
Nếu mấy chú voi đi dạo quanh thị trấn,
All dressed in purest silk;
Mặc toàn lụa trắng tinh khôi,
If robins went out coasting,
Nếu chim cổ đỏ trượt băng đi chơi,
They slid down crying whee,
Trượt xuống la “whee” vui ơi là vui,
If all this happened to be true,
Nếu mọi chuyện này đều có thật,
Then where would people be?
Thì con người sẽ ở đâu đây?
Chị và tôi cũng viết sách. Cha là người chép lại. Chúng tôi tạo ra những câu chuyện, rồi ông viết chúng lên các tờ giấy được gấp lại thành sách; khi phần viết đã xong, chị và tôi sẽ vẽ minh họa vào những khoảng trống lớn đã chừa sẵn. Theo tôi biết thì chẳng quyển nào trong số ấy còn tồn tại, nhưng tôi vẫn nhớ rõ chúng trông như thế nào. Tôi nhớ niềm vui khi được tưởng tượng ra mọi thứ. Tôi nhớ cảm giác đắm chìm, khi cả thế giới như tan đi.
Sáng tạo ra các câu chuyện hay bất cứ điều gì khác, đối với tôi dường như là hoạt động cuốn hút và tuyệt vời nhất tôi có thể mường tượng được. Và câu chuyện ấy, bằng một cách nào đó, dường như quan trọng hơn bất cứ điều gì trên đời - có lẽ vì nó không bị thay đổi. Tôi nghĩ con người tin vào Thượng đế cũng vì lý do tương tự.
Khi viết những bài thơ thời ấy, niềm vui được làm thể thơ vè được hoà quyện với niềm hân hoan tràn trề khi sáng tạo ra một điều gì đó mà tự nó có đời sống riêng - một điều gì đó thuyết phục hơn, bền vững hơn sự tồn tại con người, vốn với chính tôi cũng thất thường và không đáng tin cậy. Những bài thơ ấy là tôi; chúng đại diện cho tôi, hiện thân cho tôi. Nhưng đồng thời chúng cũng không phải là tôi; chúng là một thực thể tách biệt, có thể được quan sát, điều chỉnh và chau chuốt - điều mà bản thân tôi ngoài đời không thể nào đạt được. Tôi là người viết; nhưng tôi cũng là người đọc. Hành vi sáng tạo đắm chìm ấy lại sinh ra một khoảng cách để phân tích, khi bài thơ đã hoàn tất và tách mình khỏi tác giả. Tôi không kiểm soát được cái tôi-sáng-tác, một bản ngã mong manh, chịu ảnh hưởng bởi sự ngẫu nhiên và thất thường, khiến tôi thường xuyên lo lắng. Nhưng tôi lại có quyền kiểm soát vô hạn với tư cách người đọc, người phê bình. Tôi có khả năng kiểm soát, có sức bền bỉ và sự đầu tư quyết liệt. Những chi tiết chưa hoàn hảo và cách nhìn nhận sáo mòn dày vò tôi; ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã cố gắng giải quyết những chuyện ấy. Sau này tôi biết quy trình đó gọi là chỉnh sửa (revision), dù từ này nghe có vẻ quá điềm tĩnh cho một nỗ lực kéo dài và thường là vô vọng đến thế.
Viết lách gần như ngay lập tức trở thành hình thức giao tiếp mà tôi cảm thấy là chân thực nhất và ít rắc rối nhất. Những cuộc trò chuyện quan trọng thường được ghi nhớ theo những cách khác nhau. Sau lời nói, chỉ một ấn tượng mơ hồ còn đọng lại, và trí nhớ sẽ khuếch đại rồi bóp méo. Không ai trong hai người cùng nghe một câu nói lại có kí ức hoàn toàn giống nhau về những gì đã được thốt ra. Chắc chắn là không ai nhớ nguyên văn từng chữ. Trong khi đó, chữ viết chỉ có thể được ghi nhớ theo đúng từng chữ. Nếu một câu văn không được lặp lại chính xác từng từ một, thì đó không phải là lời được ghi nhớ mà là lời diễn đạt lại. Văn bản vẫn còn đó để xác nhận điều này. Trong văn bản, từ ngữ không biến đổi, không tráo chỗ. Ý nghĩa có thể bị tranh cãi nhưng bản thân các từ thì tồn tại vượt qua mọi tranh luận và bóp méo.
Nhưng tôi đang giao tiếp với ai? Không rõ. Một phần là với chính mình: tôi đang học hỏi xem mình nghĩ gì, hoặc ít nhất là cách mình nghĩ. Một phần là với những người lạ: những độc giả lý tưởng trong tưởng tượng của tôi, phần lớn trong số họ còn chưa chào đời. Một phần là với tương lai: một thời điểm khi tôi không còn tồn tại để giải thích bản thân nữa.
Những điều tôi viết ra một cách khẩn trương không phải là những suy nghĩ cố định được phóng chiếu từ não lên trang giấy. Những gì tôi gọi là suy nghĩ thực ra là một dạng tìm kiếm, một sứ mệnh. Nhưng điều đó rất khó khăn. Đây không phải là viết để diễn thuyết hay để giải tỏa cảm xúc. Đây là viết để chuyển hóa (hoặc ít nhất tôi muốn nó như vậy). Tôi muốn biến trải nghiệm - thường là thất vọng hoặc đau thương - thành một dạng thể hiện ngoại tại mà ở đó, nhờ sự chính xác và vẻ đẹp của nó, tôi vừa tách mình ra khỏi trải nghiệm đó vừa cứu rỗi nó. Nhu cầu viết theo cách này luôn tồn tại nhưng khả năng để viết thì lúc có lúc không. Trong nhiều năm tôi đã từng không viết được gì cả; điều này không phải thứ tôi kiểm soát được.
Khi làm thơ, tôi hoàn toàn không có cảm giác làm chủ. Những từ ngữ và cụm từ đến từ hư không; tôi hiếm khi biết chúng có ý nghĩa gì hoặc thuộc ngữ cảnh nào. Tôi cũng không thể truy vấn được nguồn gốc của những mảnh ghép đó. Dù nguồn gốc là gì, tôi hoặc là nạn nhân của chúng (khi tôi chẳng nghe thấy gì cả), hoặc là người hưởng lợi. Hồi nhỏ, tôi cảm thấy như Jeanne d’Arc trong câu chuyện bố kể cho tôi và chị trước khi đi ngủ - chỉ là bỏ qua phần bị thiêu. Jeanne nghe thấy tiếng nói và cứu nước Pháp. Tôi cũng nghe thấy những tiếng nói. Tôi nghe thấy những mảnh câu. Nhưng tôi không biết chúng muốn nói gì với tôi.
Tôi vừa hưng phấn vừa bị dày vò. Những gì tôi nghe được vừa gợi mở và ám ảnh mà lại vừa không thể hiểu nổi. Dù sao thì tôi thường chẳng nghe thấy gì cả. Nhưng khi nghe được thì tôi như bị nhập.
Nhiệm vụ của tôi là khám phá xem những từ ấy có nghĩa gì. Ai đã nói chúng. Tại sao. Phương pháp điều tra này hẳn rất quen thuộc với các nhà phân tâm học và bệnh nhân của liệu pháp phân tích. Về thực chất, mục tiêu không khác mấy: luôn luôn là để khám phá bản thể của mình.
Phương pháp đó là liên tưởng tự do. Những gì tôi làm trong phân tích đang bắt chước những gì tôi làm với tư cách là một nhà văn. Phân tích dường như là một cuộc tìm kiếm song song, với việc không ngừng xem xét lại các mối liên hệ và chuyển tiếp, những câu chuyện nguyên mẫu được kể lại có thể thay đổi hoặc giữ nguyên. Việc theo dõi suy nghĩ ấy giống như viết lách, nhưng có một sự khác biệt quan trọng. Liên tưởng tự do trong viết lách, khi quá trình viết thực sự đang diễn ra chứ không chỉ là mong ước, mang lại cảm giác phấn khích; suy nghĩ dường như bay lên cao và hướng về bầu trời, cảnh vật mở rộng, tư liệu nhìn thấy ngày càng nhiều khi người ta bay lên khỏi mặt đất. Còn trong phân tích, liên tưởng lại xoắn ốc đi xuống. Về nguồn. Về nền tảng sâu thẳm. Đầu hàng hoặc công nhận, và đôi khi sau đó là sự sáng rõ. Nhưng không phải sự hưng phấn.
Có một điểm khác thứ hai. Trong liên tưởng phân tích, công cụ hay phương tiện chính là trí nhớ. Trí nhớ được xem xét kỹ càng, cùng với việc đặt cạnh nhau các kí ức không theo thứ tự thời gian. Những hành trình khác cũng diễn ra, nhưng theo kinh nghiệm của tôi, đây là cuộc hành trình trung tâm. Điều này không xảy ra trong quá trình sáng tác thơ. Kí ức có thể lóe lên đây đó, nhưng các nhảy vọt liên tưởng gần như chỉ liên quan đến ngôn ngữ, và hình dạng của bài thơ là hình dạng được tạo thành từ các hàm ý và bầu không khí vốn có trong từng từ ngữ hay cấu trúc cú pháp nhất định. Vì vậy, quá trình này theo một cách thiết yếu nào đó là trừu tượng, một dạng luôn luôn tự làm mới và không dựa trên sự kiện đã qua.
Vẫn tồn tại một mối quan hệ kì lạ với những bài thơ tôi đã viết. Dù chúng được viết để tạo ra hoặc khẳng định sự tồn tại của tôi, nhưng một khi hoàn thành, chúng không tiếp tục làm điều đó. Khi tôi đọc lại, những gì chúng gợi lên là: tôi đã từng tồn tại và từng có suy nghĩ; một điều gì đó từng sống động và cụ thể giờ đây im lặng hoặc biến mất. Vì vậy, những bài thơ trở thành một dạng trừng phạt và những lời nhắc nhở chế giễu về những gì không còn nữa.
So với đời sống vật lý, tất cả những điều này thật khác biệt về bản chất và kết quả. Trong những biến động lớn lao về thể xác – dù là niềm khoái cảm hoặc nỗi đau thể xác cực độ, bản ngã hoàn toàn biến mất hoặc bị đánh mất. Dù theo cách nào thì đây cũng là một hành động không tự nguyện. Nó trái ngược với cuộc đấu tranh để được làm người (being), để tồn tại — điều nằm ở cốt tuỷ của nhu cầu viết lách.
Mùa hè năm ngoái, tôi viết một cuốn sách ngắn bằng văn xuôi về một cặp song sinh sống qua năm đầu đời. Một trong hai đứa, dù còn chưa biết nói, lại ám ảnh với ý tưởng về cuốn sách mà sau này em sẽ viết: em đã viết trong đầu rồi, dù không có lời nói. Em tên là Marigold. Người em gái là Rose - ít đam mê hơn, hòa đồng và dễ thương hơn. Và Marigold biết mình cần viết cuốn sách đó vì bé cần thế giới có một điều gì đó “đại diện cho bản thân em như Rose đại diện cho Rose.”
***
Đủng Đỉnh Đọc dịch từ tiểu luận Writing as Transformation của Louise Glück đăng trên The New Yorker vào ngày 4 tháng 1 năm 2025.
0 Comments