Tuổi thơ im lặng - Duy Khán

Bìa sách, NXB Kim Đồng

Năm 25 tuổi, khi lục kệ sách cơ quan tôi tình cờ thấy cuốn “Tuổi thơ im lặng” của Duy Khán. Tôi cầm lên vì thích nhan đề: tuổi thơ mà im lặng sao? Đọc vài trang, tôi như được uống vào bầu không khí miền Bắc: ngôn ngữ, văn hoá, bối cảnh – một dòng nước trong trẻo thơm tho. Rồi cuốn sách đưa bà nội hiện về, người bà của tuổi thơ tôi: bà rất giống một người bà trong sách. 

Sinh ra và lớn lên ở miền Nam trong thành phố toàn người nhập cư, tôi sớm nhận ra sự khác biệt giữa “chúng tôi” và người gốc ở đây: họ nói rặt thứ phương ngữ khác xa gia đình tôi. Hai mươi năm sau giải phóng, Nam Bắc là một dải chưa liền lạc, người Nam – người Bắc được phân biệt rất rạch ròi dù sống cùng một nơi. Cuối tuần lên trung tâm thành phố học năng khiếu, đứa trẻ con là tôi lờ mờ nhận ra mình bị “xa lánh” hơn khi nói giọng Bắc; vì vậy tôi tự đổi qua giọng Nam để thoát khỏi cảm giác lạc lõng. Đồng thời chứng kiến nhiều cô chú họ hàng từ Bắc chuyển vào đây mỗi năm để làm công nhân, tôi tự hỏi, có phải phận gia đình mình “ăn nhờ ở đậu” nên mới bị xa lánh khi cất lên giọng nói quê hương? 

Nhưng tôi may mắn được sống với bà nội – người đã giúp tôi bắc cây cầu mong manh với quê quán gia đình, nơi tôi chưa một lần hiểu. Bà là hiện thân chân nguyên và sống động của một miền Bắc xa lạ với tôi nhưng lại quen thuộc với tất thảy những người lớn trong gia đình. Nó sống trong từng dáng hình, từng thanh âm, từng cử chỉ của bà. Bà nói giọng đặc sệt Thái Bình, hay kết thúc câu với từ “đấy như”, chít tóc bằng vải nhung, chẳng ngại quầy quả đội nón lá đi bộ hàng cây số dưới trời nắng chang chang, chiều chiều hay làm cho tôi ăn món cốm ngào đường và bột sắn dây hoà nước sôi. Dáng người bà nhỏ nhắn, những vết nhăn trên khuôn mặt xô vào nhau như sóng biển. Khúc bà ru nhiều nhất là: 
Con cò mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông bắt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng…

Vậy là tôi đã khóc khi đọc “Tuổi thơ im lặng”. Thế giới bà tôi đã tạo ra về miền Bắc – một miền quê tôi chưa bao giờ sống, nay được cơi nới qua bao câu chuyện đời thường đầy nhạc và thơ, thiên nhiên, tình người. Tôi đọc để xem cái thế giới bà từng sống trông thế nào. Và quả thật, tôi lạ lẫm với hầu hết các món quà vặt, trò chơi, tập tục, các danh từ và cách xưng hô, các ca dao và thành ngữ. Nhưng cái gần gũi hơn hết thảy, cái làm tôi đọc say mê từ truyện này qua truyện khác, là muôn mặt của đời sống được tạo nên trong lòng sông hồ, núi non, gia đình, anh em chòm xóm. Nơi tuổi thơ gian khổ và trù phú ấy, đứa trẻ không phải trải qua điều giống tôi – thay đổi giọng nói ban sơ để có cái đặc ân được thuộc về nơi chốn mình sinh ra. Một lũ trẻ, từ khi sinh ra, đã tự nó được vẫy vùng trong toàn bộ sinh thể quê hương mình.

Xin được kết bằng vài lời Duy Khán gửi đến ba người con:
“Những chuyện trong cuốn sách này từ tuổi mười lăm của bố trở về trước. Bố sống trong chuyện. Chuyện trong một vùng bố ở mười lăm năm. Tất cả là người còn, người mất, cảnh còn, cảnh mất. Mỗi cảnh, mỗi người khoác vào mình một tên cúng cơm, tên tục, tên thật. Chuyện không hề hư cấu, bịa đặt.

Những chuyện này bố nhớ và mang theo trong trí, nó từng đốt cháy tấm lòng suốt chặng đường bốn mươi mốt tuổi và hai mươi bảy năm cầm súng, làm Người đến suốt mai sau…”

Còn sau đây, mời bạn đọc một đoạn trích trong tác phẩm. 
_____________

NGƯỜI NHÀ 

Những ngón chân của bố khum khum, lúc nào cũng như bám vào đất để khỏi trơn ngã. Người ta nói "đấy là bàn chân vất vả". Gan bàn chân bao giờ cũng xám xịt và lỗ rỗ, bao giờ cũng khuyết một miếng, không đầy đặn như gan bàn chân người khác. Mu bàn chân mốc trắng, bong da từng bãi, lại có nốt lấm tấm. Đêm nào bố cũng ngâm nước nóng hòa muối, gãi lấy gãi để rồi xỏ vào đôi guốc mộc. Khi ngủ bố rên, rên vì đau mình, nhưng cũng rên vì nhức chân. Rượu tê thấp không tài nào xoa bóp khỏi.

Bố đi chân đất. Bố đi ngang dọc đông tây đâu đâu con không hiểu. Con chỉ thấy ngày nào bố cũng ngâm chân xuống nước xuống bùn để câu quăng. Bố tất bật đi từ khi sương còn đẫm ngọn cây ngọn cỏ. Khi bố về cũng là lúc cây cỏ đẫm sương đêm. Cái thúng câu bao lần chà đi xát lại bằng sắn thuyền. Cái ống câu nhẵn mòn, cái cần câu bóng dấu tay cầm.

Con chỉ biết cái hòm đồ nghề cắt tóc sực mùi dầu máy tra tông-đơ, cái ghế xếp bao lần thay vải, nó theo bố đi xa lắm.

Bố ơi! Bố chữa làm sao được lành lặn đôi bàn chân ấy: đôi bàn chân dầm sương dãi nắng đã thành bệnh.

Bố bảo: Bàn chân con phải giữ gìn để mà đi cho thật khỏe, thật xa!

***

Đôi vai của mẹ thành chai từ bao giờ con không biết.

Trên đôi vai ấy ai để chiếc bánh dày vào. Bánh dày màu nâu sẫm, có lúc nứt ra. Cái năm mẹ leo lên núi gánh "đá trăm" xuống thuyền cho người ta chở lên tỉnh, ấy là cái năm vai mẹ nứt to nhất, mất một lần da, rớm máu, dính cả vào đòn gánh. Con hỏi mẹ, mẹ bảo: "Không đau, nó ê ra rồi". Mẹ cởi trần, mặc yếm mà gánh. Lưng mẹ hoàn toàn là một bãi xém nồi. Mẹ gánh củi đi bán. Mẹ gánh thóc từ đâu về suốt đêm xay giã để bán, để lấy tấm mà ăn, lấy cám nuôi lợn. Tháng nào mẹ cũng gánh gạo đi một ngày đường ròng rã đến nơi con trọ học.

Đôi vai ấy, con tin rằng suốt đời mẹ, không bao giờ trở lại lành lặn như đôi vai người thường đâu mẹ ạ.

Nhưng chính đôi vai xương xẩu, bé nhỏ, mỏng manh ấy lại gánh được bao thứ mà người thường không thể gánh nổi.

***

Bàn chân anh Thả không giống bàn chân bố, mà lại y hệt bàn chân mẹ. Nó xòe ra từng ngón. Cứ nhìn dấu chân ở ngõ, ở bãi sắn, tôi đoán được là chân anh. Bàn chân anh rất mỏng, năm cái xương của năm ngón nổi hẳn lên mu. Mùa hanh, bàn chân anh nẻ chằng chịt, rớm máu, anh vẫn phớt lờ. Khi nào đau lắm anh mới chịu trát gio vào, để khô, ra ao lấy rơm vò nát rồi kỳ. Vết nẻ liền vào được nửa ngày. Anh chạy như bay, hết đánh giậm lại bắt cá. Hết gánh đá lại gánh củi. Hết leo núi lại lội đồng. Anh đá chó dữ bằng đôi bàn chân ấy. Chó chạy bạt vía.

Một chiều, anh pha tre non để chẻ lạt, nhỡ tay, con dao bập một nhát chéo qua bàn chân phải, máu chảy đầm đìa. Anh vẫn phớt tỉnh đi vào nhà rịt thuốc lào, mạng nhện, rồi xé vải đụp để băng. Dấu bàn chân đỏ lòm từ sân vào nhà.

Từ đấy, bàn chân anh có vết dao chéo giẫm lên các nẻo đường. Anh đi đánh giặc. Chân đất mà coi thường cả chông, coi khinh cả gai.

***

Lạ thật, làng tôi mỗi nhà gọi cha mẹ một kiểu. Anh em tôi gọi cha là "chú", mẹ là "u". Con nhà bác Tuyên cũng gọi như vậy. Nhà thằng Diễn, trẻ con lại gọi cha mẹ là "chú, thím". Tôi thấy hình như gọi như vậy không đúng đâu. Gọi cha mẹ là "giời" cũng chưa xứng. Đã đành là "chú như cha, thím như mẹ". "Sảy cha còn chú". Nhưng cha mẹ phải là cha mẹ chứ. Mấy thằng ở tỉnh theo cha mẹ về làng tôi chơi. Tôi rất lạ: Nó gọi cha mẹ là "cậu, mợ". Nghe rất sang trọng nhưng mà tôi vẫn thấy không thể được!

Tôi đánh bạo, tôi gọi cha, mẹ là "thầy, u". Không ngờ, về sau, tất cả anh em tôi, cả con nhà bác Ký Hồ cũng gọi như vậy, gọi quen rồi! "Thầy ơi!", "U ơi"...

***

Bố đi đâu về, không một lần nào là chúng tôi không có quà.
Mở thùng câu ra là một thế gian dưới nước: Cà cuống, niềng niễng đực, niềng niễng cái bò nhộn nhạo. Hoa sen đỏ, nhị sen xanh tỏa thơm lừng. Những con cá sộp, cá chuối, cá chõn quẫy tóe nước, mắt thao láo. Mai mẹ lại có tiền đong gạo rồi.

Bố im lặng, cởi trần ra. Bố ngồi ăn cơm. Khi ngồi, lưng bố hơi gù, bụng mỏng dính, da bụng trùng lại. Suất cơm thường là hai bát chiết yêu úp một. Một miếng sắn, miếng khoai cõng mươi hột cơm. Thấy chúng tôi ríu rít chia quà. Người vừa nhai cơm vừa gật gật đầu.
- Mai đi cắt tóc. Thiên hạ đến lứa rồi!

Bố lẩm bẩm thế.

Bố đi cắt tóc về, không một lần nào là chúng tôi không có quà.

Mở hòm dụng cụ ra là cả một thế gian trên đất: Con sập sành, con muỗm, con bọ bầu to xụ, mốc thếch, ngó ngoáy. Hấp dẫn nhất là những con dế đạp lạo xạo trong các vỏ bao diêm: toàn dế đực, cánh xoăn, chọi nhau phải biết và gáy vang nhà. Bố gọi chung các loại dế biết gáy là "tắc tẩu". Chúng tôi gọi riêng từng loại: con "róc", con "théc'', loại bé nhất là "kéc"... theo tiếng kêu của chúng mà gọi. Mong sáng mau để tôi đem chúng chọi với dế của anh Liễn. Nếu nó thắng, anh Liễn lại bảo:
- Dế của thầy mày bắt mà lị!

Mùa đông hết dế. Bố có thức quà khác. Hôm nào về, bố cũng cho một cái gì. Lạ thật, sách ở đâu mà lắm thế. Tiền đâu mà bố mua? Truyện Kiều, Nhị Độ Mai, Lục Vân Tiên, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Phạm Công - Cúc Hoa, Phan Trần, Tam Quốc chí, Tứ tài tử, Cổ học tinh hoa, Nhị thập tứ hiếu. Đấy là những truyện bố bảo phải đọc. Những người được vẽ ở bìa, ở truyện cứ múa trong cả mọi lúc tôi ngủ mê. Tôi nhớ mặt từng người. Họa sĩ vẽ giỏi thật. Tôi khóc nức nở khi Cúc Hoa hiện trên mộ thăm hai con Nghi Xuân - Tiến Lực. Tôi muốn được như Lục Vân Tiên. Nhưng tôi không biết trên đời này, có Nguyệt Nga thật không? Có lần bố bảo:
- Chúng nó dốt bỏ mẹ mà mua bao nhiêu truyện về xếp đống bỏ đó. Thầy lấy về cho mày! Hãy đọc đi. Đọc cho cả u mày, cho các anh các em mày nghe.

Bố dạy cách đọc. Cách đọc ngân nga. Đến nỗi u tôi phải giải chiếu ra sân bắt tôi ngân nga, có lúc nỉ non. Tôi phải ngừng lại lau nước mắt, hình như u cũng sụt sịt.

U không biết chữ nào mà sao hiểu đến thế. Tôi cứ đọc, có chỗ không hiểu truyện nói gì, u tôi nói luôn. U giỏi thật!

Quà của bố còn là cái ngòi bút cũ, quyển sách người ta viết dở. Bố bảo phải tập viết. Nếu họ viết mực tím thì mày dùng mực đỏ. Nếu họ viết mực xanh thì mày dùng mực tím, viết đè lên chữ của họ, hoặc là viết dặm giữa hai hàng chữ họ.

Quà của bố, làm tôi giàu quá!

***

Cái Bảng sang ở nhà bà ngoại. Nó về chơi. Mới đến cổng là nó đã hát. Mỗi lần nó hát một bài hát mới. Lúc thì sa mạc, lúc thì trống quân, lúc thì cò lả, lúc thì hát ví nhưng nhiều nhất là giọng quan họ. Nó khoe mợ Năm dạy hát, dì Thường dạy hát. Miệng nó hát, tay nó ôm lấy cuộn lá dứa. Lá dứa về chiều bao giờ cũng ngọt lừ. Anh em tôi quây quần tước lấy lõi ăn "tiệc". Lúc nó đi, tôi nhớ, cầm cái tay mũm mĩm bé bỏng ấy tôi cắn khẽ. Cổ tay nó thơm thơm.

Một hôm nó đùng đùng bỏ nhà bà ngoại, về. Nó mặc quần cộc rách. Tay nó không thơm nữa. Suốt ngày lấm láp, trơ những xương là xương. Thế mà nó cứ hát cả ngày. Nó tha thẩn khi thì gốc đu đủ, khi thì gốc vối già, khi thì gốc mít. Nó hát hay lắm:
Con cò là con cò kỳ
Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô.

Nó toàn chơi một mình. Tôi ngủ, nó vẫn hát nỉ non ở sân, ở góc vườn.
Mẹ ơi đừng đánh con đau
Con đi bắt ốc, kiếm rau mẹ thì....

Rồi một hôm nó đi đâu. Đến thổng buổi nó lê về. Bàn chân đầy máu. Nó lăn ra góc sân. Một mảnh sành cứa toác ngang gan bàn chân. Giò cua được dăm con. Nó không khóc. Vừa được buộc chân xong, máu vẫn chảy ri rỉ, nó lại hát...



Post a Comment

0 Comments