Tác giả: Holli Bettis
Ngày xửa ngày xưa, không hẳn là quá xa xưa, có một bác ngư dân hiền hậu và tốt bụng. Bác sống trong một căn chòi nhỏ ở cuối bến tàu dài, nơi có chiếc thuyền đánh cá và chiếc xuồng chèo tay của bác neo đậu. Nhiều ngư dân khác cũng sống dọc bãi biển ấy. Họ đều là những người bạn thân thiết và thường cùng nhau ra khơi đánh cá.
Một ngày nọ, khi bác ngư dân tốt bụng đang đi đánh cá cùng một vài người bạn thì một cơn bão bất ngờ nổi lên. Con thuyền lắc lư dữ dội giữa những con sóng lớn, và từng xô nước mưa như trút thẳng từ trời xuống. Boong tàu lạnh buốt nên các ngư dân đi xuống khoang để tránh rét cho đến khi cơn bão qua đi. Một người trong số họ lấy ra từ rương của mình một chiếc chăn bông to, đẹp và ấm áp, rồi phủ lên các bạn đồng hành.
Bác ngư dân tốt bụng nhìn thấy mới hỏi: “Chiếc chăn đẹp này, anh lấy từ đâu vậy? Suốt đời tôi chưa từng thấy chiếc chăn nào đẹp đến nhường này.”
“Là từ người thợ may chăn sống trên đỉnh núi cao. Tôi đã đổi chiếc chăn bằng những con cá ngon nhất đánh bắt được. Nó giúp tôi luôn ấm áp vào ban đêm,” người bạn trả lời. Nghe thấy vậy, bác ngư dân tốt bụng biết mình nhất định phải lên đỉnh núi để tìm người thợ may chăn ấy. Bác khát khao có được một tấm chăn ấm áp như thế để sưởi ấm cơ thể giá lạnh mỗi đêm. “Nhưng mình sẽ mang gì đến để đổi lấy chiếc chăn đây?” bác tự hỏi. Bác suy nghĩ hồi lâu và cuối cùng đã biết mình sẽ mang gì theo.
Bác sẽ tìm ba chiếc vỏ sò tuyệt mỹ nhất mà đại dương để lại trên bãi biển. Ngày qua ngày, suốt nhiều tháng trời, bác đi dọc bãi biển và nhặt lên hàng trăm chiếc vỏ sò rồi lại đặt xuống. Bác đưa từng chiếc lên tai để lắng nghe âm thanh, tìm tiếng nào âm vang như tiếng sóng vỗ bờ. Cuối cùng bác tìm được chiếc đúng ý và đặt vào giỏ.
Rồi bác tiếp tục nhặt các vỏ sò, thổi mạnh vào từng chiếc để lắng nghe âm thanh phát ra. Bác thổi vào hàng trăm chiếc vỏ cho đến khi tìm được chiếc có âm vang giống như tiếng của con hải cẩu già oai phong nhất biển cả. Bác đặt nó vào giỏ cạnh chiếc thứ nhất.
Tiếp đó, bác chạm vào từng chiếc vỏ để chắc rằng nó phải mượt mà và sáng bóng như ngọc trai nước ngọt. Bác cảm nhận hàng trăm chiếc vỏ cho đến khi tìm được chiếc có mặt trong sáng loáng đến mức thấy cả cầu vồng và mịn màng như lụa. Chiếc thứ ba này cũng được đặt vào giỏ.
Giờ thì bác đã có ba chiếc vỏ sò tuyệt vời nhất để đem tặng người thợ may chăn. Bác chuẩn bị cho hành trình lên núi, gói ghém túi hành lý với đầy nghêu và sò để ăn dọc đường vì biết rằng quãng đường rất xa. Bác khoác túi lên vai và tiến vào khu rừng.
Bác đi suốt cả ngày xuyên qua rừng để đến núi. Khi mặt trời lặn và rừng tối đen, bác dựng trại nghỉ đêm. Khi bác đang nhóm lửa và nướng bữa tối thì tiến ra từ trong rừng một người tiều phu cao lớn, vác rìu trên vai.
Người ấy đặt rìu xuống và nói: “Xin chào ông, tôi chỉ là một người tiều phu nghèo và đói khát, món ông đang nấu có mùi thơm quá. Ông có thể chia cho tôi ít đồ ăn không?”
Bác ngư dân tốt bụng đáp: “Tôi không có nhiều, nhưng tôi rất sẵn lòng chia sẻ tất cả những gì tôi có.”
“Ôi cảm ơn ông,” người tiều phu nói.
Vừa ăn xong món ăn của bác ngư dân, ông liền nói: “Tôi chưa từng ăn món gì ngon đến vậy trong đời. Đây là món gì vậy?”
“Là nghêu và sò từ biển cả,” bác ngư dân trả lời.
“Tôi chưa từng đến biển. Biển trông thế nào?” người tiều phu hỏi.
Thế là bác ngư dân kể cho ông nghe những điều kỳ diệu của biển cả. Bác kể về sóng, về hải cẩu, về cá voi, về thủy triều và bãi biển. Rồi bác lấy ra một chiếc vỏ sò trong giỏ và trao cho người tiều phu. Bác bảo đặt lên tai mà nghe: “Đó chính là âm thanh của sóng biển — là bài ca của biển cả,” bác nói.
Người tiều phu lặng người khi nghe bài ca đại dương vang lên trong vỏ sò, một giọt nước mắt lặng lẽ lăn trên má ông. “Tôi chẳng bao giờ có thể ra biển vì công việc của tôi gắn bó với khu rừng này. Xin ông cho tôi giữ chiếc vỏ sò ấy để tôi còn nhớ về câu chuyện ông kể và bữa ăn tuyệt vời hôm nay được không?” ông hỏi.
Như bạn đã biết, bác ngư dân rất tốt bụng nên bác không nỡ từ chối một niềm vui nhỏ bé như vậy. Bác vẫn còn hai chiếc vỏ sò để mang cho người thợ may chăn, nên bác tặng chiếc đó cho người tiều phu. Người tiều phu cảm ơn, nhặt rìu lên và rời đi. Bác ngư dân cũng đi ngủ để lấy sức cho chặng đường hôm sau.
Sáng hôm sau, bác ngư dân thu dọn đồ đạc và bắt đầu đi bộ. Bác đi mãi, đi mãi cho đến khi ra khỏi khu rừng và bắt đầu leo lên núi. Chẳng bao lâu, con đường trở nên rất dốc; trời bắt đầu tối và bác biết mình không thể đi tiếp được nữa. Thế là bác dựng trại nghỉ qua đêm và nhóm lửa nướng bữa tối.
Chẳng bao lâu sau, một cậu bé cùng con dê của mình đi tới. Cậu bé nói: “Thưa bác, cháu chỉ là một cậu bé nghèo sống trên núi, đã làm lạc mất đàn dê của mình, và món bác đang nấu có mùi thơm quá. Bác có thể chia cho cháu một ít thức ăn được không ạ?”
Bác ngư dân tốt bụng trả lời: “Bác không có nhiều, nhưng bác sẵn lòng chia cho cháu tất cả những gì bác có.”
“Ôi, cảm ơn bác ạ,” cậu bé nói.
Ngay khi nếm thử món ăn của bác ngư dân, cậu reo lên: “Cháu chưa từng được ăn món nào ngon như thế trong đời. Đây là món gì vậy ạ?”
“Là nghêu và sò từ biển cả,” bác ngư dân đáp.
“Cháu chưa từng ra biển. Biển trông thế nào ạ?” cậu bé hỏi.
Thế là bác ngư dân tốt bụng kể cho cậu nghe về những điều kỳ diệu của biển. Bác kể về những con sóng, về những con hải cẩu, về cá voi, về thủy triều và bãi cát. Rồi bác lấy ra một chiếc vỏ sò từ giỏ và đưa cho cậu bé. Bác bảo cậu áp nó vào tai và lắng nghe. “Đó là âm thanh của sóng biển đấy; đó là khúc hát của đại dương,” bác nói.
Cậu bé áp vỏ sò vào tai và lắng nghe. Cậu nở nụ cười rạng rỡ nhất mà bác ngư dân từng thấy. Rồi cậu đưa vỏ sò đến tai con dê, và con dê cũng dường như mỉm cười. Sau đó, chẳng cần bác ngư dân nói gì, cậu bé đưa chiếc vỏ lên môi và bắt đầu thổi. Âm thanh kỳ diệu vang vọng khắp núi rừng, và chẳng bao lâu sau, đàn dê lạc của cậu đã quay trở về.
Cậu bé mừng rỡ vô cùng. Cậu nói với bác ngư dân: “Với chiếc vỏ sò này, cháu sẽ không bao giờ làm lạc mất đàn dê nữa. Cháu có thể xin bác cho cháu giữ nó được không ạ?”
Như bạn đã biết, bác ngư dân là một người rất tốt, với trái tim đầy ắp lòng nhân hậu. Làm sao bác có thể từ chối cậu bé, nhất là khi biết rằng chiếc vỏ sò ấy sẽ giúp cậu giữ đàn dê bên mình? Bác biết rằng mình vẫn còn một chiếc vỏ sò nữa để mang đến cho người thợ may chăn, nên bác đồng ý tặng chiếc này cho cậu bé.
Cậu bé cảm ơn bác, rồi buộc chiếc vỏ sò vào một mảnh da nhỏ và đeo quanh cổ. Sau đó, cậu tiếp tục lên đường với đàn dê lẽo đẽo theo sau. Bác ngư dân đi ngủ để lấy sức cho hành trình ngày mai lên núi.
Sáng hôm sau, bác ngư dân thu dọn đồ đạc và bắt đầu leo tiếp lên đỉnh núi. Hôm đó, ngọn núi còn dốc hơn hôm trước. “Chắc mình đã đến gần đỉnh rồi,” bác nghĩ thầm. Bác bẻ một cành cây chắc, làm gậy chống để giúp mình vượt qua đoạn đường gập ghềnh. Bác leo mãi, leo mãi, nhưng khi mặt trời bắt đầu lặn, bác vẫn chưa tới nơi. Thế là bác lại dựng trại qua đêm và nhóm lửa.
Lúc đang nướng bữa tối, một bà lão trông rất yếu ớt, bệnh tật lảo đảo tiến về phía bác và nói:
“Xin lỗi ông, tôi chỉ là một bà lão nghèo khổ, đói lả và đang cận kề cái chết. Thứ ông đang nấu thơm quá. Ông có thể chia cho tôi chút gì ăn được không?”
Bác ngư dân tốt bụng trả lời: “Tôi chẳng có nhiều, nhưng tôi sẵn sàng chia cho bà tất cả những gì tôi có.”
“Ôi, cảm ơn ông,” bà lão nói. Vừa nếm thử món ăn, bà đã thốt lên: “Tôi chưa từng ăn thứ gì ngon đến thế trong đời. Đây là món gì vậy?”
“Là nghêu và sò đến từ biển cả,” bác ngư dân đáp.
“Tôi chưa từng đến biển bao giờ. Biển trông như thế nào?” bà hỏi.
Thế là bác ngư dân bắt đầu kể cho bà nghe những điều kỳ diệu của biển. Bác kể về sóng, về những con hải cẩu, về cá voi, về thủy triều và bãi cát. Rồi bác lấy chiếc vỏ sò cuối cùng trong giỏ, đưa cho bà lão và bảo bà áp nó lên tai.
“Đó là tiếng sóng biển — đó là khúc ca của đại dương,” bác nói.
Khi bà lão áp vỏ sò lên tai và lắng nghe, sắc mặt tái nhợt của bà dần chuyển hồng. Rồi, chưa kịp để bác ngư dân bảo gì, bà bắt đầu vuốt ve mặt trong mượt mà của vỏ sò. Và khi bà làm vậy, sắc cầu vồng trong vỏ sò như sống dậy và nhảy múa quanh bà, khiến bà rực sáng ánh vàng diệu kỳ.
“Tôi đã khỏi rồi! Vỏ sò kỳ diệu của ông đã chữa lành bệnh của tôi. Tôi sẽ không chết nữa. Cảm ơn ông, cảm ơn ông, bác ngư dân tốt bụng. Ông có thể cho tôi giữ chiếc vỏ này mang về làng không? Dân làng tôi đều mắc phải căn bệnh giống tôi, và tôi rất muốn họ cũng được chữa lành. Ông có thể cho tôi không?” bà nài nỉ.
Bác ngư dân biết rằng đó là chiếc vỏ sò cuối cùng của mình, và nếu cho bà thì bác sẽ chẳng còn gì để đem đổi với người thợ may chăn. Nhưng như bạn đã biết, bác là một người rất tốt, và trong tim bác có quá nhiều lòng nhân hậu nên bác không thể từ chối. Nếu bác không cho bà, cả làng sẽ lâm nguy. Vậy là bác trao tặng bà chiếc vỏ sò cuối cùng. Bà cảm ơn bác rồi vội vã trở về làng để cứu dân làng.
Bác ngư dân thấy lòng mình tràn đầy niềm vui vì đã giúp đỡ được nhiều người trên hành trình. Nhưng khổ thay, giờ bác chẳng còn gì để dâng tặng người thợ may chăn dù đã vượt qua một chặng đường dài. Bác không biết phải làm gì, người cũng mệt rã rời sau một ngày leo núi. Bác nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau bác quyết định vẫn sẽ đến nhà người thợ may chăn dẫu không còn gì để tặng. Bác nghĩ: “Ta đã đi xa đến thế, ít nhất cũng nên gặp bà ấy một lần.”
Cả buổi sáng, bác trèo nốt phần đường cuối cùng. Rồi bác cũng tới được đỉnh núi và nhìn thấy căn nhà nhỏ của người thợ may chăn. Đó là một ngôi nhà nhỏ màu trắng ấm cúng, có cánh cửa màu xanh lá hình vòm và mái nhà lợp rơm. Khói bay lên từ ống khói.
Bác tiến đến cửa giơ tay định gõ, nhưng chưa kịp chạm tay thì cánh cửa đã mở ra.
“Chào buổi chiều. Mời ông vào, tôi đã đợi ông rồi”, người phụ nữ nói.
Bác ngư dân sửng sốt. “Sao bà ấy biết mình đến?” bác nghĩ thầm. Bác bước vào bên trong và thấy một chiếc bàn tròn nhỏ với hai chiếc ghế, hai tách trà bốc khói và một đĩa bánh quy. Hương trà bạc hà và bánh quy lan tỏa khắp căn phòng.
Bác nhìn về phía cửa sổ và thấy một chiếc kính thiên văn khổng lồ bằng vàng đang hướng ra ngoài. Người phụ nữ mời bác ngồi xuống và cùng thưởng trà.
Bác kể cho bà nghe rằng bác đã thấy một trong những tấm chăn tuyệt đẹp của bà và đã trèo núi suốt từ biển cả để đổi lấy một tấm. Rồi bác nói rằng rất tiếc là bác không còn gì để tặng bà.
Chưa kịp giải thích xong, người phụ nữ đã lên tiếng bằng giọng nói ngọt ngào nhất mà bác từng nghe:
“Tôi đã thấy ông qua kính thiên văn. Tôi đã thấy ông đi tìm từng chiếc vỏ sò tuyệt vời nhất. Tôi đã thấy ông tặng một cái cho người tiều phu. Tôi đã thấy ông tặng một cái cho cậu bé chăn dê. Tôi cũng đã thấy ông tặng cái cuối cùng cho bà lão ốm yếu.
Bác ngư dân ơi, ông là người rất tốt, trái tim ông giàu lòng nhân hậu và rộng lượng, nên ông không cần phải tặng tôi gì cả để đổi lấy tấm chăn. Tôi đã làm riêng một tấm đặc biệt dành cho ông.”
Rồi bà lấy ra tấm chăn đẹp nhất bác từng thấy. Những đường kim mũi chỉ nhỏ và tinh xảo. Trên chăn bà đã thêu hình ba chiếc vỏ sò. Bà còn thêu lại cả hành trình bác đi qua núi. Khi bác chạm tay vào, bác thấy hình chiếc rìu của người tiều phu, chú dê của cậu bé, nụ cười của bà lão, và cả cây gậy của mình.
Bác cảm ơn bà từ tận đáy lòng, gói tấm chăn quý báu lại cẩn thận và bắt đầu hành trình dài trở về biển cả.
Giờ đây, mỗi đêm trước khi ngủ trong túp lều nhỏ của mình, bác ngư dân lại đắp tấm chăn ấm áp, nhìn lên những vì sao và nhớ về người thợ may chăn, về hành trình của mình cùng những người bạn mà bác đã gặp và giúp đỡ trên đường.
0 Comments